Tôi đi nhiều tháng, nhiều ngày
Mà thương nhớ vẫn chất chồng vậy tôi?
Ngày yêu đi vào đời tôi
Tôi vô tư cũ chết bên hiên đời
Trong mắt tôi đá mọc rồi
Buồn sâu như giếng vui là gió thôi
Tôi ơi tôi tôi ơi tôi
"Đời là bể khổ, tình là dây oan"
Có đi hết cả thế gian
Làm sao đi khỏi lòng mình đây tôi?
Thứ Tư, 30 tháng 12, 2009
Thứ Ba, 15 tháng 12, 2009
For me
Đường tôi đi, dù là ngẫu nhiên hay tự quyết định, chưa bao giờ là Đường Hoa cả. Phần lớn khó khăn là do tính cách của tôi. Nhưng tôi thường chỉ tặc lưỡi khi khó khăn quá, rồi sẽ gạt buồn phiền qua một bên để xem mình làm gì tiếp theo, không phải để thương hại mình, hối tiếc sai lầm...
Bởi vì yêu màu hồng là một bản chất tốt, chẳng giận ai lâu, chẳng hận ai cho thêm rắc rối cuộc đời và vì thế, tôi cũng thích vận động, thích thể thao. Khi bạn vận động thể chất, mồ hôi tuôn như tắm, cũng kéo theo hầu hết những độc tố trong trái tim bạn ra ngoài.
Suy cho cùng, tôi may mắn là người thiểu năng ở mặt nào đó. Kiểu người không muốn nhớ những gì xấu xa, chỉ thích nhớ những gì tốt đẹp mà người khác đã từng làm cho mình. Chỉ bấy nhiêu người đã đi qua cuộc đời tôi thôi, mà tôi còn cảm thấy nợ tình trả mãi không hết.
Tôi chỉ còn một số dự định chưa hoàn thành. Biết mình phải vội lên một chút. Nhiều việc vẫn chưa dứt ra được. Thôi ráng lên nhé bạn, tôi chỉ có thể khẩu hiệu thế thôi, phải không?
Mấy hôm nay, đầu óc rất tốt, tâm trạng yên bình, có lẽ sẽ tiếp tục viết lại được. Cứ mỗi ngày một ít, kiến tha lâu sẽ xong những tác phẩm dang dở.
Đôi khi nhìn ra xung quanh, cảm giác thật lạc lõng với tất cả thế giới quanh mình. Thật kỳ cục, một con người rất lý trí như tôi, lại có nhiều lúc, không thể hiểu ngay cả những gì tôi mắt thấy tai nghe. Có lẽ tôi không muốn hiểu, hiểu mà không làm, không thể làm, đau đầu thêm thôi, có phải không?
Thứ Năm, 3 tháng 12, 2009
Hình ảnh người viết sách
Nụ cười qua đi,
Nỗi buồn ở lại.
Niềm vui qua đi,
Nỗi đau còn mãi.
Với tay hái mây,
Gắn vào vai áo.
Đôi vai hư ảo,
Nhẹ gánh đa đoan,
Kiếp Người!
Bài thơ cũ, gần như không nhớ mình đã viết, hôm nay tình cờ check thấy, đọc lại vẫn thấy buồn.
Nỗi buồn ở lại.
Niềm vui qua đi,
Nỗi đau còn mãi.
Với tay hái mây,
Gắn vào vai áo.
Đôi vai hư ảo,
Nhẹ gánh đa đoan,
Kiếp Người!
Bài thơ cũ, gần như không nhớ mình đã viết, hôm nay tình cờ check thấy, đọc lại vẫn thấy buồn.
Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009
bài hát yêu thích
http://nghenhac.info/pop_pm.asp?iFile=36630&iType=21
Thật ra lời bài hát này tôi không hiểu lắm, chỉ hiểu bập bõm thôi. Không quan trọng nhỉ, cái gì cần hiểu thì đã hiểu, đủ rồi phải không? Điều tôi thích nhất là giai điệu và cái title với cách dùng động từ đứng đầu. À, nghe như là hãy biết yêu thương, điều đó làm bạn có điểm tựa để sống giữa dòng đời.
Thật ra lời bài hát này tôi không hiểu lắm, chỉ hiểu bập bõm thôi. Không quan trọng nhỉ, cái gì cần hiểu thì đã hiểu, đủ rồi phải không? Điều tôi thích nhất là giai điệu và cái title với cách dùng động từ đứng đầu. À, nghe như là hãy biết yêu thương, điều đó làm bạn có điểm tựa để sống giữa dòng đời.
Thứ Năm, 5 tháng 11, 2009
bài hát yêu thích hiện giờ
http://nghenhac.info/Nhac-phim/Han-Quoc/1027/Forever.html
Về bản chất, tôi là người khó thay đổi, hiiii, thì vẫn bị bảo là LỲ ấy mà. Một khi đã thích cái gì, vĩnh viễn không thay đổi. Nhưng tôi luôn biết thế giới luôn thay đổi. Điều tôi luôn nhắc nhở mình NOTHING'S FOREVER, là một cách học chấp nhận mọi thứ đều có thể thay đổi. Hiểu thì vẫn hiểu, buồn thì vẫn buồn. Nhưng điều dễ chịu nhất là tôi có thể nhìn mọi thay đổi, dù tốt hay xấu, dù dưới bất kỳ hình thức nào và có thể cười. Sao tôi phải níu kéo chứ nhỉ, ai có thể bay đến một thế giới mới lạ (điều tôi không làm được) và họ thấy vui vẻ, hạnh phúc, là việc nên mừng cho họ mà.
Về bản chất, tôi là người khó thay đổi, hiiii, thì vẫn bị bảo là LỲ ấy mà. Một khi đã thích cái gì, vĩnh viễn không thay đổi. Nhưng tôi luôn biết thế giới luôn thay đổi. Điều tôi luôn nhắc nhở mình NOTHING'S FOREVER, là một cách học chấp nhận mọi thứ đều có thể thay đổi. Hiểu thì vẫn hiểu, buồn thì vẫn buồn. Nhưng điều dễ chịu nhất là tôi có thể nhìn mọi thay đổi, dù tốt hay xấu, dù dưới bất kỳ hình thức nào và có thể cười. Sao tôi phải níu kéo chứ nhỉ, ai có thể bay đến một thế giới mới lạ (điều tôi không làm được) và họ thấy vui vẻ, hạnh phúc, là việc nên mừng cho họ mà.
Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009
ĐÀ LẠT TRONG MẮT TÔI
Tôi đến Đà Lạt vào một buổi chiều. Trời lạnh hơn Sài Gòn, nhưng không lạnh như tôi tưởng. Đại khái là bạn chỉ cần một cái áo khoác nhẹ, kéo hững hờ ngang ngực để cái lạnh thấm vào lòng. Xứ lạ, cái lạnh và nỗi trống vắng thường trực trong lòng, tất cả hòa vào nhau, hình như lại làm tôi thấy mình trở nên trống rỗng rất dễ chịu. Không còn những lo lắng, buồn phiền, những mất mát, thất vọng..., chỉ còn tôi với cái se se lạnh lùng nơi phố lạ, người lạ và cả bầu trời ít nắng, nhiều mây cũng lạ.
Ở cái bùng binh tên gì, tôi quên mất, à, hình như tên đường là 30 tháng Tư hay là đường Lê Lợi nhỉ? - con đường chạy ngang qua cái khách sạn tôi ở, vào buổi chiều, người ta bày bán rất nhiều thứ linh tinh. Lần đầu tiên tôi thấy con cù lần (mà tôi nghi là không phải con cù lần quá, vì nó giống một khúc cây khô đầy lông như lông sóc nâu, màu hung hung, lại anh ánh bóng). Người bán giới thiệu rất nhiều khi thấy tôi tỏ ra thích thú những con cù lần. Nào là dùng lông cù lần để cầm máu rất tốt. Sau khi nhổ lông xong, phun rượu vào thì cái khúc cây khô queo đó sẽ tự mọc lông mới?! (cái này thì không đúng đâu, vì tôi có làm thử rồi mà nó chẳng mọc lại gì cả, trụi lủi vẫn là trụi lủi. Còn nữa, lông nó không thấm nước, chớ dại mà đắp vào vết thương, chẳng cầm máu, lại còn dính vào trông kinh khủng lắm!).
Thích nhất là lang thang trên những con phố, xem nhà cửa, vườn cây, người ta sống, làm việc... Chẳng cần phải bận tâm mình đang ở đâu, cứ hôm nay rẽ phải thì ngày mai rẽ trái. Chiều tối thì gọi xe chở mình về, chỉ cần nhớ tên khách sạn là đủ. Thêm mấy ngày để mỗi ngày lang thang một thác. Thật ra tôi thấy những thác ở Đà Lạt không ấn tượng bằng những cái thác ở Bảo Lộc. Thác ở Đà Lạt được tôn tạo, tu sửa, thiếu mất vẻ rừng rú, hoang dã của thiên nhiên. Thác ở Bảo Lộc thường nằm bên những rừng cây, đất đá nhấp nhô, không có mấy dấu vết con người chạm đến. Cảm giác như là rất rất hùng vĩ, rất bí ẩn của một thế giới hoang sơ chưa bao giờ người ta hiểu biết hết.
Tối tối, bên hồ Xuân Hương, vừa đợi cà phê nóng hổi, vừa lặng lẽ ngắm trời và nước trên mặt hồ. Xa xa, những hàng liễu rủ dưới ánh đèn, cũng cô độc như tôi và cái lạnh của một Đà Lạt trong lòng khách Sài Gòn, nơi bốn mùa nóng nhiệt, nơi người ta luôn bị cuốn theo nhịp sống hối hả, không mấy khi được có cái thú một mình, trống rỗng như là không tồn tại dễ chịu như thế.
Đường rời Đà Lạt, quanh quanh đèo núi, xanh xanh cây cỏ, hoa lá, cứ thấy như mình đã để lại đó một phần trái tim, một phần con người, có lẽ đã từng thật sự là tôi ở giữa cuộc đời.
Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2009
Bánh bao chỉ... ngon ơi là ngon!
-->
Tháng bảy âm lịch đã về quê đốt nhang cho cha má. Tháng tám Trung thu, chỉ về nhà ở Gò Vấp đốt nhang ở bàn thờ. Mua lung tung xèng rồi về nhà, ngại cái lô cốt ĐBP thế là vòng đường bờ kênh đi ngõ sân bay.
Dù sao thì đường Trần Huy Liệu đã thành đường một chiều cả tháng nay rồi, đi ngõ nào cũng phải xuôi NKKN xuống sân bay mà thôi.
Trên đường chợt nhìn thấy mấy cái tấm bảng chưng hàng chữ "Bánh bao chỉ, Ngon ơi là ngon!". Lại nhớ cha má ngày còn sống đều rất thích ăn bánh bao chỉ.
Thế là lon ton ghé vào:
- Chào con, cái bánh bao chỉ ngon ơi là ngon đó... bán làm sao?
- Dạ, ba ngàn một cái.
- Hiiii, họ nhà bánh bao chắc bà con với xăng dầu.
- Dạ hổng có đâu cô. Bánh bao có mùi xăng là khỏi ăn luôn.
- Thế à!
Tôi buồn cười. Người đâu mà thật thà quá. Mà cũng không biết ai mới thật thà nhỉ? Mua xong rồi tôi mới cười cười bảo:
- Ngon ơi là ngon nên mới lên giá như xăng dầu đó hả? Hồi trước, chỉ 500 - 1000. Bây giờ trượt giá, leo tuốt lên mây ngồi luôn, nóng lạnh quá! Heeeeee. Chúc con bán hết hàng nha.
- Dạ, cám ơn cô. Giá đó là chủ giao bán, con chỉ ăn lương thôi.
Trên đường về nhà mới để ý cái logo "Bánh bao chỉ, ngon ơi là ngon" đó tràn ngập các lề đường như bán báo dạo vậy. Tự nhiên lại ngớ ngẩn nghĩ tới những người bán thuê ấy. Không hiểu cái khu nhà trọ bánh bao chỉ này sẽ ở đâu nhỉ? Có lẽ sẽ nằm đâu đó cạnh khu nhà trọ của những người bán hủ tíu gõ, xôi vò, cơm rượu...
Thử đoán xem người bán sẽ được bao nhiêu phần trăm trên giá một cái bánh bao chỉ đó?
Thử đoán xem một ngày họ có thể thu nhập bao nhiêu? Cái tủ con con như cái tivi 14inch đó, sức chứa tối đa theo tôi khoảng 1.000 cái.
1.000 cái lận đó. Chắc chẳng có ai xuất sắc trong vai bán bánh bao chỉ đâu nhỉ.
Lan man thế thôi, chỉ là tôi rất thích cái logo dụ khị vui vui đó. Là tôi nhớ cha má, là cái gì nữa tôi không biết, chỉ biết là khi nhìn thấy hàng chữ logo đó, tự nhiên lại nhe răng ra cười mà lòng thật thì buồn và nhớ mênh mông! Cũng không rõ chính xác là mình buồn nhớ cái gì.
Thứ Năm, 10 tháng 9, 2009
ĐÌNH VIỆN THÂM THÂM
Chương 1 GẶP GỠ
Lần đầu tiên tôi gặp Tép con là ở
bên cái giếng cũ ở góc cùng trong vườn nhà. Đó là một chiều ảm đạm của tôi,
ngày mà thế giới của tôi đã tan tành và tôi thấy mình chẳng còn muốn sống.
Nhưng trớ trêu ở chỗ, tôi là một người rất sợ ma. Không muốn sống mà sợ chết,
thật là mâu thuẫn. Cứ nghĩ đến chuyện tôi phải tham gia vào cái thế giới ma quỷ
ấy thì tôi đã sợ chết khiếp rồi. Ai mà biết được khi ta chết rồi, ta có biết
hay không. Chuyện người ta nói: Chết là hết! Thực tế, người có thể nói đều là
người sống, đâu có ai nói vọng từ đáy mồ.
Cái giếng cũ ấy nằm khuất sau mấy
tầng dây leo. Đó là nơi ngày bé tôi thường len lách vào trốn những khi buồn phiền,
bị la mắng hay chỉ đơn giản là một chỗ để tôi một mình mơ mộng. Giếng sâu thăm
thẳm, tối om om, tạo cho tôi cảm giác nó chứa rất nhiều bí mật. Xung quanh, cây
cỏ, dây leo cao và khá dày, tưởng chừng thế giới là của riêng tôi, riêng cả
những bí mật mà tôi thêu dệt khi nhìn vào những lớp rêu dày chạy từ miệng giếng
xuống khoảng tối hun hút đó.
Từ dạo tôi xa nhà vào đại học, cuộc
sống rất nhiều niềm vui. Ngay cả những ngày về thăm nhà, tôi cũng đi cùng bạn
trai - người mà với tôi đã từng là tất cả thế giới.
Khi tôi trầy trật để chui vào chỗ
cái giếng, ngồi trên miệng giếng, kỷ niệm tuổi thơ ùa về khiến tôi tự dưng muốn
khóc thật to. Những giọt nước mắt mặn chát rơi trên tay tôi, rơi xuống bắp chân
tôi, chạm vào những vết xước, rát càng thêm rát. Nước mắt ở đâu mà nhiều không
tưởng, cứ chảy ròng ròng vào những vết xước của tôi. Cái đau như thức tỉnh tôi
và tôi thấy mình rất bình tĩnh nghĩ về mọi thứ. Trong lòng vẫn biết: giữ người
muốn ở, không ai giữ người muốn đi. Tôi đã từng nghĩ sẽ trả bất cứ giá nào để
giữ người ở lại. Chỉ nghĩ thôi, vì tôi cũng biết, nếu tôi mua được thì tôi
không khốn khổ thế này và điều quan trọng là tôi sẽ căm ghét nếu phải trả giá
để mua tình yêu đã mất. Còn có thể yêu sao, khi tôi sẽ luôn nhớ rằng tôi phải
mua nó.
Những dòng suy nghĩ rất mạch lạc
trong tôi lúc ấy, làm tôi nhận ra mình không yếu mềm như mình tưởng, thậm chí
còn ngược lại là khác. Sự hiểu biết chính mình thật đau đớn, như là phải qua
lửa đỏ mới biết mình có bị hóa tro than hay sẽ thành đá quý. Thành gì cũng mặc,
thà cứ ngu ngơ không biết còn hơn phải hiểu biết nhiều như vậy, nếu tôi không
phải là tôi, chết chìm, chết cháy... túm lại là chết quách cho xong thì...?!
Tôi đang miên man nghĩ, nước mắt vẫn
chảy không ngừng và những ý nghĩ về cuối khiến tôi bắt đầu vừa khóc, vừa cười.
Một tiếng nói trẻ con trong veo vang lên bên cạnh làm tôi giật mình, nổi hết cả
da gà:
- Nè chị, thôi khóc được không?
Người chị làm bằng nước hay sao mà nước mắt chảy hoài không hết vậy?
Tôi ngớ ra nhìn thằng nhóc da trắng
bóc, môi đỏ như son, xinh như thiên thần, chỉ trạc bảy-tám tuổi, đang đứng sững
ngay bên cạnh từ lúc nào chẳng rõ:
- Em vào đây bằng cách nào? Mà em là
ai? Đây là nhà riêng mà?
- Chị vào bằng cách nào thì em vào
bằng cách đó. Còn nữa, chị vờ hay thật không biết mảnh vườn này đã đổi chủ rồi?
Cái dáng nó đứng chắp tay sau đít,
vẻ mặt nghiêm trang, nói năng lạnh lùng, sắc sảo như người lớn thật là ngộ.
Trông nó đáng yêu đến nỗi tôi lập tức quên khuấy mình ngồi đây làm gì. Nước mắt
đã ngừng chảy từ lúc nào không rõ. Vẻ tươi tắn, sáng rực đầy hấp lực từ con
người nó làm tôi có cảm giác như nước trong xanh thẳm, khi chạm vào, những đau
đớn của mình sẽ không còn nữa. Điều tôi muốn làm nhất là dang tay ôm nó vào lòng.
Nhưng ngay khi tôi mở tay định ôm nó, nó nhảy cái vèo thật nhanh về phía sau,
hai tay vẫn chắp sau đít, miệng càu nhàu:
- Đồ con gái! Động một chút là muốn
ôm người ta?!
Tôi ngồi với hai cánh tay ngớ ngẩn
treo giữa không khí. Bất chợt, tôi thả tay xuống, trề môi:
- Tưởng mình có giá lắm sao? Không
cho ôm thì thôi - rồi tôi sẵng giọng - con nít, chui vào cái hốc bù tó này làm
gì, không sợ té cái đùng xuống giếng sao?
- Còn chị, chui vào đây làm gì, định
tự tử chắc?
- Ngớ ngẩn. Người như ta đây, đâu có
ngu mà chết lãng nhách như vậy.
Nó ngờ vực nhìn vào mặt tôi lúc ấy
đang cố ý hất vênh lên, ra cái vẻ bất cần, rồi nó đưa ra một cái khăn mù xoa
vải sọc:
- Chị lau mặt đi, sưng húp hết rồi.
Vậy sao chị khóc tức tưởi như vậy, còn ngồi lắt lẻo ở thành giếng, tưởng chị
muốn nhảy xuống chứ. Chị có biết là em buộc áo chị rồi không?
- Buộc áo?
Tôi hỏi lại và nhìn theo ngón tay
của nó.
Trời ơi! Thằng nhóc này thật là…!
Cái áo đầm nhiều ren yêu quý, tôi chỉ mới mặc sáng nay, nhân ngày nhận bằng tốt
nghiệp đại học, nó ngang nhiên túm lại, buộc vào dây leo có vô số gút ngắn dài,
nhọn hoắt thế kia, ren rua gì cũng tiêu rồi!
Nãy giờ đang bực vì bị thằng nhóc
chơi quê, tôi đứng dậy, thẳng tay nắm váy áo kéo thật mạnh. Tiếng vải rách loạt
xoạt và tiếng dây leo đứt bựt bựt như củi mục, phần nào làm vơi bớt sự bức bối
trong tôi. Ngay vào cái lúc tôi định quay sang nó để nói cho nó biết, rằng nó
đã làm chuyện rất thừa, ngoài chuyện làm hư cái áo tôi ra, nếu thật sự tôi nhảy
xuống, những gì nó buộc… Tôi đã không nói lời nào ra miệng, khi nhìn thấy ánh
mắt thảng thốt của nó đang treo đứng ở đâu đó phía sau tôi. Tôi quay lại, chẳng
thấy gì. Tự nhiên tôi thấy sờ sợ, vội hạ thấp giọng thì thầm:
- Sao vậy? Em thấy gì à?
- Không có. Chắc em hoa mắt. Em
thường thấy nhiều thứ lạ, ông nội nói em bị hoa mắt. Lúc chiều vào đây, thấy
chị ngồi khóc không ngừng, em cũng sợ mình lại hoa mắt. Chỉ đến khi cầm áo chị
lên buộc vào dây leo, em mới tin chị có thật.
Tôi nhìn khuôn mặt xinh xắn của nó
một lát, rồi thở dài thầm nghĩ: Mình thật là…! Những gì nó làm đều là muốn giúp
đỡ mình, không biết cám ơn nó thì thôi, còn tính dằn mặt nó. Đứa bé tốt bụng
như vậy, mình là người lớn, lại nhỏ nhen quá chừng!
Tôi nhìn nó gượng cười:
- Xin lỗi em. Em tên gì?
- Mọi người gọi em là Tép con.
- Tên thật của em đó, không phải
biệt danh thường gọi.
- Chỉ là Tép con.
- Không muốn nói thì thôi. Chị tên
là…
Nó cắt ngang:
- Chị Lý chứ gì, em biết lâu rồi.
Tôi ngơ ngác:
- Làm sao em biết? Ai nói cho em
biết?
- Trong kia nói cho em biết.
Vừa nói, nó vừa chỉ tay vào chỗ mấy
cái hồ nước cũ nằm ngang, nơi tôi đã sửa sang, kê chắn thành một chỗ trú suốt
thời trẻ con của mình. Trong đó còn rất nhiều vật dụng mà tôi đã tha vào. Hơi
giật mình, tôi lo lắng chạy tọt vào xem nó có phát hiện ra chỗ giấu những cuốn
nhật ký của mình không. Chúng đã biến mất. Tôi quay ra đứng chống nạnh:
- Mấy cuốn tập của chị đâu?
- Nó… bị ngấm nước mưa hư hết rồi.
- Em có đọc nó không?
- Dạ không có...
- Vậy làm sao em biết tên chị?
- Chị ghi đầy trên vách đó thôi.
Chắc chị hay quên, sợ quên cả tên mình nên chẳng chừa chỗ nào mà không ghi tên,
ký tên hết, làm em muốn ghi tiếp cũng không có chỗ.
Tôi yên tâm, phì cười, ngoắc nó vào
theo:
- Đây nè, thiếu gì chỗ trống, ghi
đi.
Tôi đưa cho nó cục phấn, vừa nói,
vừa xóa những phấn cũ đi. Nó trông rất hào hứng, viết ngay vào đó hai chữ “Tép
con” to tướng. Tôi khen:
- Chữ đẹp nha. Em đi học chưa?
- Em có học, nhưng không đến trường.
Thầy cô đến nhà dạy cho em.
- Sao vậy? Học một mình không có bạn
buồn lắm.
- Ông nội nói, những gì em cần, ông
nội sẽ mang hết về nhà cho em.
- Vậy ông nội có mang bạn về cho em
không?
- Cái đó thì không.
- Ồ! Vậy thì buồn chết!
Trời đã sâm sẩm tối. Từ xa xa vang
lên những tiếng gọi tên Tép con thất thanh. Tôi bảo nó:
- Người nhà em kiếm em kìa. Mình về
thôi. Tạm biệt em.
- Dạ. Chị ơi...
- Ừ, gì hả em?
- Mai chị có ra đây nữa không?
- Nếu em muốn...
- Dạ có. Em chờ chị nha.
- Ừ!
Nó đi trước, tôi theo sau. Bây giờ,
tôi mới nhận ra là chúng tôi đi theo một lối mòn, ít rậm như lối từ phía tôi
đi. Điều này chứng tỏ Tép con thường xuyên đến đây. Tôi rất thắc mắc, Tép con như
thiên sứ, hẳn là ai cũng yêu mến, sao phải kiếm một cái góc cô đơn thế này, và
cậu bé có vẻ già trước tuổi.
Phía ngoài, chỗ Tép con dừng chân là
một vườn cây rộng mênh mông. Tôi nhớ không lầm thì trước đây chỗ này là đất
hoang. Nghe nói có một đại gia đã mua nó, rồi bỏ đó hàng chục năm trời. Tôi chỉ
đi học có mấy năm thôi mà mảnh đất đó đã thành thế này, cứ như là người ta đã
sống và trồng trọt nhiều năm rồi vậy.
Nó quay lại bảo tôi:
- Chị đi dọc theo bờ tre sẽ gặp con
sông. Cặp bờ sông có con đường mới mở…
- Chị biết đường về nhà. Thổ địa ở
đây mà.
Tôi dừng chân vẫy tay với nó. Nó
ngoảnh mặt về phía những tiếng gọi một lát, rồi bỗng nhiên chạy nhanh lại ôm
lấy chân tôi. Tôi sửng sốt nhìn xuống mái đầu dễ thương của nó. Còn nhớ hồi
nãy, nó đầy vẻ kiêu căng nhảy tránh tôi, còn phang cho tôi mấy từ: đồ này, đồ
nọ...
Tôi ngồi xuống, mở tay ra ôm nó. Nó
áp mặt vào má tôi. Má nó thơm thơm, rất trẻ con, rất mỏng manh khiến trái tim
tôi chìm xuống. Tôi dịu dàng hỏi:
- Sao vậy em? Không muốn về nhà à?
- Dạ.
Nó nói xong, nước mắt đã trào ra.
Tôi đưa tay vuốt nhẹ mặt nó, vuốt những giọt nước mắt cho nó. Bỗng nhiên, nó
buông tôi ra, tự mình đưa hai tay lau nước mắt, vẻ mặt lại trở nên nghiêm lạnh
và nói:
- Không được khóc. Con trai nước mắt
quý như vàng, ông nội nói vậy.
Nó bỏ chạy rất nhanh về phía những
tiếng gọi, không ngoảnh lại lần nào.
Tôi cứ đứng đó nhìn theo đến khi nó
khuất mất sau những bóng cây. Nỗi buồn lại tràn về như thác. Tôi bước dọc theo
con đường nhựa mới rất đẹp chạy dọc bờ sông, nước mắt lại tràn ra.
******
Mấy buổi chiều kế tiếp, tôi đều ra
đợi với cái laptop trên tay, nhưng Tép con không đến. Tôi lại sắp phải đi. Hôm
nay là buổi cuối cùng tôi còn đợi Tép con. Ngồi bó gối trong cái hồ nước vuông
vuông, tôi lại nghĩ về giây phút tôi gặp Tép con và lại nghĩ về những giọt nước
mắt của mình.
Cuộc chia tay tuy đau đớn, nhưng sau
khi nghĩ kỹ, tôi lại thấy mừng. Biết sớm, còn hơn sau này mới biết. Lúc đó, nào
họ hàng, con cái... dây mơ rễ má, anh vẫn ngựa quen đường cũ, rồi lại quay về
thề thốt, tôi biết mình chắc chắn thà khốn khổ sẽ ngậm đắng, nuốt cay để sống
mòn và khi đó, e rằng tôi sẽ không bao giờ còn cười được nữa, mà tôi lại rất
thích cười.
Dứt khoát rồi, tôi cũng nên làm cho
xong mấy phác thảo đã nhận và đi kiếm việc khác. Ra vào gặp mặt, tôi chỉ sợ
mình không thể làm chủ được mình, lại mặc kệ ngày mai mà tiếp tục yêu anh mất!
Cảm giác có người đang nhìn mình, tôi mở to mắt, ngẩng đầu. Người đàn ông trung
niên đứng chặn ngang phía trước đã kịp quay đầu nhìn khắp xung quanh. Tôi chỉ
thấy phần thân nghiêng của ông ta với mái tóc đinh muối tiêu.
Tôi nghĩ chắc là ông nội của Tép con
nên ra ngoài và khẽ ho:
- Chào ông, ông kiếm Tép con?
Ông ta quay mặt lại thì tôi biết
mình lầm. Ông ta quá trẻ để làm ông nội. Nhiều lắm chỉ có thể làm cha Tép con.
Chỉ tại mái tóc muối tiêu của ông ta làm tôi tưởng ông ta đã già. Đó là một
khuôn mặt rất ấn tượng vì cực kỳ dễ phác nét cơ bản. Một hai nét cũng đủ nhận
ra người. Nhìn chung là gai góc, xương xẩu, nhưng gặp rồi khó quên. Không như
anh, mặt mũi thanh tú nhưng phải phác ít nhất là mười nét trở lên thì mới không
lẫn với những khuôn mặt khác. Vừa nghĩ bâng quơ, tôi có ý chờ nghe anh ta trả
lời. Vậy mà anh ta làm lơ như không nghe thấy và quay lưng bỏ đi.
Tôi bực bội nhìn theo bóng anh ta,
rồi mới nghĩ ra rằng anh ta đi theo con đường mòn của Tép con. Thế là tôi lẽo
đẽo đi phía sau, cho đến lúc ra đến đường quẹo về nhà mình. Tôi đứng đó nhìn
theo cái dáng cao lớn đi những bước dài mà thong thả vô cùng, rất khác với vẻ
mặt gai góc khó ưa của anh ta rồi nghĩ:
- Cái góc bí mật của mình bây giờ
xem ra chẳng còn chút riêng tư gì hết. Sáng mai, trước khi đi, phải ra đó dọn
dẹp thôi.
Buổi tối, sau khi hoàn thành nốt
những phác mẫu, tôi tắt máy, tắt đèn, định đi ngủ sớm. Cha gõ cửa hỏi vọng vào:
- Ngủ sớm vậy con? Nói chuyện với
cha một chút được không?
- Dạ.
Tôi ngồi dậy mở đèn, mở cửa.
Cha ngồi xuống giường nhìn tôi cười:
- Con sao rồi?
- Con chẳng sao.
- Sắp tới con định làm gì?
- Dạ, con chưa có kế hoạch cụ thể.
Có lẽ, trước mắt con sẽ đi kiếm lẻ từng hợp đồng hoặc xin việc ở đâu đó.
- Ừ, cố gắng lên. Tiếc là cha không
giúp gì được cho con, chỉ nói suông thôi.
- Có cha ủng hộ là con vui rồi. Cha
đừng lo cho con.
Cha nhìn tôi một lúc, ngập ngừng một
chút, rồi không nói thêm gì nữa, đứng lên chúc tôi ngủ ngon.
Tôi có thể đoán cha muốn nói gì. May
là cha không nói, vì tôi thật lòng không muốn nói gì hết về cái áo đầm bị rách,
về chuyện lần đầu tiên sau mấy năm, tôi về nhà một mình, chuyện tôi sao lại
phải lập kế hoạch riêng…
Tôi đóng cửa, tắt đèn, lên giường ôm
con gấu nhồi bông to mà cha đã tặng vào ngày tôi được tuyển thẳng vào lớp mười.
Hồi ấy, con gấu bông mềm như nhung này là thứ xa xỉ duy nhất mà cha mua cho
tôi. Nó trị giá bằng bảy giạ lúa thơm. Cha chưa bao giờ xài hoang như vậy. Những
gì cha mua đều được tính đến từ nhiều ngày, thậm chí là nhiều tháng, cho đến
khi thấy thật sự cần thiết, cha mới thật sự mua. Nghĩ đến cha, tôi thở dài:
- Xin lỗi cha! Sau này con sẽ nói,
khi con bình thản. Những gì con nói ra lúc này, có thể là rất phiến diện, thiếu
công tâm, gay gắt hay tệ hơn là nói xấu người khác. Thấy con tệ như vậy, cha sẽ
không vui đâu.
Tôi nghe tiếng mở cửa trước, tiếng
cha nói chuyện với ai đó và cuối cùng là tiếng gõ cửa phòng tôi:
- Con có khách.
- Ai vậy cha?
- Nghe nói là hàng xóm với chúng ta.
Nhưng cha không biết họ.
Tôi nghĩ ngay đến Tép con và nhảy
xuống đất, chân trần chạy ra.
Ngồi ở bàn nước đối diện với cha là
một ông già rất đẹp lão. Không khó để khẳng định đó là ông nội Tép con.
- Chào ông!
Tôi gật đầu và ngồi xuống cạnh cha.
Ông già nhìn tôi một cách kỳ lạ, như là đang xẻ tôi ra ấy. Không phải cái cách
ghét bỏ hay dò xét gì đâu, mắt ông rất hiền, chỉ là không biết sao tôi cứ có
cái ý nghĩ đó. Ông nội Tép con bỗng nhiên chỉ nói rất đơn giản:
- Tép con bệnh, nó muốn gặp con.
- Dạ, tối thế này... đi bây giờ sao
ạ?
- Phải. Con yên tâm, hai cha con
cùng đi với tôi, sau đó sẽ có người đưa cả hai về. Làm phiền con một chuyến.
- Dạ, không có gì đâu, chỉ cần cha
con đồng ý…
- Ta đi thôi.
Cha vừa nói, vừa đứng dậy. Mắt cha
thoáng liếc nhìn lên cái đồng hồ treo tường. Tôi nhanh chóng thay cái quần lửng
màu đen, cái áo pull ngắn tay màu trắng, xỏ đôi giày thể thao rồi chạy theo sau
cha.
******
Ông già vào trong một chiếc xe hơi
đang mở máy rì rì. Tôi vừa vào cùng, vừa nghĩ:
- Có xa xôi mấy đâu mà cũng đi xe!
Thật ra cũng không gần như tôi nghĩ,
vì xe chạy theo con đường nhựa mới. Nhà Tép con kín cổng, cao tường, theo đúng
nghĩa đen của từ này. Trong bóng đêm, chỉ thấy tường rất cao. Cánh cổng tự động
chạy qua khi ông nội Tép con nhấn kèn.
Từ ngoài xa, tôi đã nhìn thấy Tép
con ngồi trong lòng một người đàn bà đang ngồi trong một cái ghế bành to. Cả
người nó quấn kín trong tấm mền màu xanh, chỉ ló cái mặt. Tôi đến gần, Tép con
nhìn tôi nhoẻn cười. Dưới ánh đèn, trông nó trắng xanh như làm bằng sứ.
Ông nội Tép con bước lại gần nói:
- Cho cháu xuống đất đi, đừng quấn
mền kín mít thế.
Ông nói xong thì quay người ra ngoài
hiên. Cha đã ngồi xuống, trò chuyện với ông nội Tép con ở cái bàn bằng đá trước
hiên nhà.
Người đang ôm nó trong lòng nhẹ
nhàng thả nó xuống đất và tháo cái mền ra. Trong khi bà làm, Tép con cứ dậm
chân, vẻ rất sốt ruột. Tép con nắm tay tôi dẫn vào trong một căn phòng rộng
rãi, có rất nhiều vật dụng trẻ con mà tôi đoán là phòng nó. Ở đó, đã có hai
người phụ nữ trẻ đang ngồi trong hai cái ghế bành to, một đang đọc sách, một
đang đan lát. Thấy chúng tôi vào, họ đứng dậy đi ra ngoài. Tôi buông tay Tép con, mỉm cười
gật đầu chào họ. Tép con chạy đến bên một chiếc tủ đứng, lục soạn gì đó.
- Chị ơi, lại đây.
Tôi lại gần. Tép con đang mở một tập
giấy có rất nhiều hình vẽ nguệch ngoạc, chỉ cho tôi và hỏi:
- Chị thấy em vẽ thế nào?
- Cái này mà gọi là vẽ hả? Con này
là con gì kia?
- Con mèo.
- À phải, nhờ có sáu cọng râu. Còn
con này…
- Con gà.
- Ừ, khiếp! Con gà gì vậy?
- Chị còn hỏi... Đó là con gà trống
mà, nó đang gáy Ò ó o.
- Hi hi, mấy cái chữ O đó làm chị
thắc mắc, cứ nghĩ là... trứng đi lạc.
Tép con nhìn mặt tôi một lát, rồi
chỉ tay vào trán tôi:
- Chị nha, chọc em.
- Biết rồi sao? Mặt mũi gì mà lúc
nào cũng nghiêm chỉnh như ông cụ non. Chọc thêm chút cho em khóc luôn.
Tép con nhìn mặt tôi bắt chước vẻ
hình sự của nó, bật cười khanh khách. Tôi phát hiện nó sún một cái răng cửa.
Bỗng nhiên tôi nghĩ: có thể chàng nhóc sún răng nên ngại cười cũng nên.
- Hai chị em có chuyện gì vui mà
cười nhiều vậy?
Tiếng ông nội Tép con làm cả hai
giật mình ngừng bặt. Cha đang đứng cạnh ông. Hai người nhìn vào hai chúng tôi.
Ông nội Tép con nói:
- Cha con nói con hiện giờ khá rảnh.
Không biết con có thể ở lại làm gia sư dạy vẽ cho Tép con một thời gian?
Tôi quay nhìn cha, cha gật đầu. Tôi
quay nhìn Tép con. Nó mở to đôi mắt nhìn vào tôi với vẻ mong chờ.
- Mấy hôm nay Tép con cứ nhắc con
mãi.
- Con còn một số việc chưa làm xong.
- Vậy là con nhận lời?
- Dạ. Cám ơn ông đã tin tưởng con.
- Chỉ mong con không thấy bất tiện
khi đến đây, vì nhà chúng tôi có một số quy định. Khi nào con chính thức làm
việc, con sẽ biết.
Tép con vui mừng:
- Ông ơi, cho chị ở chung phòng với
con được không?
Tôi ngắt lời:
- Chị ở nhà, chỉ đến đây dạy em rồi
về.
- Chị ở đây với em luôn, không được
sao?
- Không được.
- Tại sao?
- Chị thích ở nhà mình.
******
Tép con xịu mặt:
- Sao chị cứ bắt em vẽ mấy cái hình
này vậy? Đường tròn thì cứ lấy compa vạch, đường thẳng thì lấy thước, sao cứ
phải vẽ tay hả chị?
- Muốn biết phải không?
Tôi chỉ cái quạt bàn:
- Có phải nó gồm những hình tròn,
hình vuông, đường thẳng… không nào? Xem nha.
Tôi vạch ngay một đường tròn, hai
đường thẳng đứng và hai đường chân nằm ngang phía dưới... Tép con reo lên:
- A! Cái quạt. Để em vẽ mấy cái nút
nha. Mấy chữ O, phải không chị?
- Hì, vậy là biết tại sao cứ phải
vạch đường thẳng, vẽ mấy cái hình vuông vuông, tròn tròn, nhọn nhọn... rồi hả?
Chúng ta phải tập làm chủ đôi tay. Công cụ là để hỗ trợ, không phải để lệ thuộc
vào chúng.
- Dạ. Khi nào thì em sẽ vẽ được như
chị?
- Ồ! Cứ kiên nhẫn đi nhóc. Nếu em
chịu khó thì không lâu lắm đâu.
Trong khi nói, tôi hơi ngoảnh ra
phía cửa sổ vì thoáng thấy một khuôn mặt. Nhưng khi tôi nhìn thẳng ra thì chỉ
thấy cành lá lao xao. Hình như tôi nghe Tép con trả lời lí nhí cái gì đó về
thời gian. Tôi quay lại hỏi:
- Em vừa nói gì?
- Dạ không.
- Chị về nhé.
Tôi lẳng lặng ra cổng. Con đường dọc
bờ sông với bờ kè cao, trông rất sạch đẹp. Có một thời, con sông bị đắp đập
suốt mười mấy năm. Nước tù đọng, phèn mặn quện với rác, phân người, súc vật...
nổi lềnh bềnh. Bây giờ, con đập không còn nữa, trả lại dòng sông nước lớn, nước
ròng, trả lại hai bờ cây trái xanh tươi.
Tôi ngồi xuống bờ sông. Làn gió mát
trong lành từ phía sông thổi đến, thật dễ chịu. Nó làm tôi thấy mình tự do như
mây trên trời.
Khi quẹo vào cổng nhà mình, tôi
thoáng thấy xe của ông nội Tép con đang trở về. Hẳn Tép con sẽ rất vui. Tép con
rất yêu ông nội, nhưng ông thường xuyên đi vắng. Những khi ông nội ở nhà, nó
luôn đi sau ông như dán keo. Ông làm thế nào, nó làm thế ấy. Ông nội nó, thật
tiếc, chẳng mấy khi cười.
Mải nghĩ, tôi va vào người từ trong
cổng nhà tôi đi ra. Lại cái ông đầu muối tiêu! Tôi bực bội nhớ việc anh ta
chẳng thèm trả lời mình khi trước nên chỉ liếc một cái, toan đi luôn.
- Này, ít nhất cũng phải xin lỗi một
tiếng chứ, cô va vào tôi kia mà?
- Xin lỗi!
- Từ ngữ gì mà phun ra, nghe đầy mùi
khói lửa.
Giọng nói pha chút hài hước, không
giống vẻ lạnh lùng khi trước, khiến tôi đứng hẳn lại nhìn thêm một chút vào
gương mặt gai góc khó ưa đó. Kỳ lạ, anh ta biết cười, mà còn cười rất tươi nữa!
Tươi mấy thì cũng mặc anh ta. Tôi đưa bàn tay xoa xoa trán, lặng lẽ quay đi.
Vào đến nhà, tôi vào trong lấy điện
thoại ra, ngần ngừ nhìn cục sắt tôi đã không mở từ ngày ở lại quê. Cuối cùng,
tôi cũng thắng được mình, đem cục sắt xinh xinh đó cất trở vào. Chợt nhớ về
người tóc muối tiêu từ nhà mình đi ra, tôi kiếm cha hỏi:
- Cha ơi! Khách vào nhà mình khi nãy
là ai vậy?
- Đó là con trai người bạn cũ của
cha.
- Con biết bác ấy không?
- Con không biết đâu. Chỉ là một
chuyến thăm hỏi xã giao thôi. Dạo này con thấy vui chưa?
Cha lãng chuyện là tôi hiểu ngay cha
không muốn tôi hỏi gì thêm. Tôi cười rồi ra lan can ngồi nhìn chiều đang tàn
trên con đường trước ngõ. Dáng anh chàng đầu muối tiêu xa dần cuối ngõ nhà tôi,
in giữa không gian có màu vàng sẫm. Cây lá cuối trời mây sậm, trở màu xanh đen,
cứ ngả nghiêng theo từng cơn gió mạnh. Bốn bên đồng không mùa nắng, đất nứt nẻ,
cả cỏ cũng héo úa... Tất cả, tạo cho tôi cảm giác anh ta như kẻ cô đơn, lang
thang tìm về một vùng trời hy vọng, ước mơ nào đó, dù rằng xem ra, cũng chẳng sáng
sủa gì mấy trong buổi chiều tàn này. Tôi chợt bật cười vì những ý nghĩ của
mình. Tôi có thể bị không gian và hoàn cảnh chi phối cảm xúc, nhưng không phải
ai cũng ngớ ngẩn như tôi. Tự mình thương vay, rồi buồn hộ, dở hơi hết sức.
Từ ngoài ngõ, chiếc xe của ông nội
Tép con rì rì chạy vào. Người lái xe mở cửa bước ra là người đọc sách. Cô đến
báo cho tôi biết gia đình họ sẽ vắng nhà vài hôm. Khi nào về, họ sẽ ghé qua
báo.
- A! Chị...?
- Tú. Tôi tên Tú.
- Dạ, chị Tú! Cả nhà đi ngay trong
đêm sao?
- Dạ phải.
- Có cần gởi Tép con...
- Cám ơn cô, Tép con cũng đi với
chúng tôi.
Khi Tú ra về, cô bỗng quay lại nhìn
tôi cười buồn bã rồi mới lái xe đi.
Tôi ngồi trong bóng tối, nhắm mắt
nghĩ lan man mọi thứ. Trong nhà tối om, cha vẫn không bật đèn. Hình như hôm nay
cha cũng có nhiều ưu tư.
******
******
Thứ Ba, 8 tháng 9, 2009
HƯƠNG KHÓI LÊN TRỜI
Hương đang phỏng vấn xin việc. Hai
bàn tay cô để trên bàn. Những câu hỏi rất đơn giản như: tại sao lại chọn công
việc này, hiểu biết về công ty đó thế nào, có chịu được áp lực công việc, có
làm thêm giờ, đi công tác xa…
- Cám ơn em đã đến dự phỏng vấn của
công ty chúng tôi. Em về chờ thông báo sau nhé.
- Dạ. Cám ơn chị. Chào chị.
Hương thở dài. Vậy là lại rớt. Cô đã
nhận mấy chục câu: "Chờ thông báo sau" này rồi. Đó là cách từ chối
cho dễ nghe.
Lấy điện thoại ra, cô mở máy, có một
cuộc gọi nhỡ của mẹ. Nghĩ đến mẹ, cô lại nghĩ về tương lai mù mịt và một hiện
tại làm việc thời vụ, trôi nổi hết nơi này đến nơi khác. Công việc không ổn
định. Tiền bạc không ổn định. Nhà cửa không ổn định. Rất nhiều thứ cơ bản không
ổn định. Điều lo phiền nhất của cô là làm mẹ thất vọng.
Giấc mơ của cô là học thật giỏi,
kiếm được việc tốt và có thể chăm lo cho mẹ những năm tháng cuối đời nhàn hạ,
sung sướng. Cô biết mình không thông minh bằng người, nhưng cô có thể bù đắp
bằng sự chăm chỉ.
Sự chăm chỉ như cái nhãn dán trên
trán cô suốt những tháng năm cắp sách. Cô chưa bao giờ xếp hạng đầu, lúc nào
cũng dưới vài cái tên. An ủi mình thì có thể bảo nằm trong nhóm top ten. Rất
nhiều bạn học của cô tranh thủ làm thêm, có khi bỏ học hàng tuần để đưa khách du
lịch đi tua. Tiền đến tay mà không làm thì phí quá. Cô không dám làm như thế vì
sợ bị cấm thi.
Cô không dám làm rất nhiều thứ vì
mục đích chính của cô là học. Lúc nào cô cũng nhớ hình ảnh mẹ ngồi ở rìa chợ,
bên những bó rau, lam lũ đến thương.
Cầm mảnh bằng đại học cả năm mà chỉ
như một sinh viên với công việc thời vụ, làm sao ăn nói với mẹ? Mẹ sẽ không thể
hiểu tại sao thành phố đầy những cử nhân thất nghiệp đang kiếm sống bằng nhiều
nghề trái tay khác nhau như cô. Mẹ nghĩ con gái ở thành phố sẽ bay cao, bay xa.
Mẹ không hề biết cô đã về tỉnh xin một chân giáo viên cũng bị từ chối vì đã đủ
người. Vừa nghĩ ngợi, Hương vừa nhấn số:
- Mẹ yêu ú ù!
Tiếng cô cười trong vắt rất vui tai.
Mẹ cô cười mắng:
- Sao bây giờ mới gọi lại?
- Mẹ biết rồi mà, con bận. Mẹ yêu
gọi, mừng thấy mồ, trừ khi không thể bắt máy.
- Giả bộ huyên thuyên. Nhớ tự chăm
sóc mình, đừng mải làm bỏ bữa nghe.
- Dạ. Mẹ đừng lo.
Những lời dặn dò của mẹ như cuộn
cassette yêu thương mà cô thuộc lòng. Mỗi lần nghe giọng mẹ, cô lại nhớ rất
nhiều thứ và tự trách mình không cố gắng hơn nữa. Nhiều khi cô cũng không biết
mình phải cố gắng bằng cách nào để có một kết quả có chút đường mật gì đó. Ăn
quả đắng mãi, hình như rút gần kiệt sức chiến đấu trong cô mất rồi. Kiếm được
việc, tạm đủ sống qua ngày, một ít làm quà cho mẹ, không dành dụm được chút gì
cho ngày mai, thật thảm hại.
Mệt mỏi quá, hay mình cứ nhận lời đề
nghị của Thức, học một khóa bartender rồi về làm công cho anh ta? Lương cao,
lộc nhiều, cho con người năng động trong môi trường nhiều cạnh tranh. Con gái
miền Tây học nghề bartender thì hợp quá còn gì. Đó là cách nói của Thức. Nếu
không phải Hương quá biết về Thức, người từng một thời theo đuổi mình thì cũng
không phân biệt đâu là lời thật, đâu là lời hư. Lời hư nằm ở câu đầu: lương
cao, lộc nhiều, năng động, cạnh tranh. Nghe như là nhân và quả. Thế gian này
không giống cổ tích đâu. Gieo một đống nhân chẳng có quả nào, bình thường thôi.
Con người sống thuần lý trí như cô không tin cái gì trên trời rơi xuống.
Thủy dặn cô chuẩn bị để Tuân ghé đón
cô đến dự khai trương cái quán cà phê sân vườn ở ngoại thành. Hai người bạn này
của cô từng là những thủ khoa đầu vào, nhưng rồi lại giỏi chạy sô kiếm tiền hơn
là đến lớp. Cứ nhìn vào cách sống quay như chong chóng, đủ thấy tính cách họ
khác cô một trời một vực. Vì lý do chỉ có trời mới hiểu, bọn họ lại rất yêu quý
cô. Tình cảm là một thứ không thể dùng lý trí để phân tích logic.
Khi Tuân chở Hương đến nơi, Thủy đã
đứng đợi ở cửa. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng cả rồi. Có khi họ thức cả đêm qua
để làm cũng nên. Khung cảnh trang trí rất đẹp. Sang trọng với thủy tinh trong
suốt và những gỗ, đá mộc làm bàn ghế. Rất thơ với những cây xanh, hoa hồng đã
lác đác nụ non, những giỏ hoa, lúa khô... trong tiếng nhạc hòa tấu êm dịu. Hương
nhắm mắt lại, hít thở thật sâu. Có chút gì như máu hoang dã, cứ chảy cuồng
trong trái tim cô với nỗi nhớ đồng quê đến nghẹn ngào.
Tiếng Thủy kéo cô về thực tại:
- Thấy sao hả mọt sách? Có mơ màng
không?
Hương cười. Thủy chỉ mình và cô gái
lạ đang vào cùng Tuân:
- Bộ chỉ huy đây.
Cô gái mỉm cười, hiện rõ bốn cái
đồng tiền duyên dáng quanh khóe môi và đưa tay nắm tay Hương, tự giới thiệu:
- Thư.
Bộ ba tự tin, thoải mái đó làm Hương
thấy mình thật lạc lõng. Tuân chỉ vào cái bàn đá ở góc cùng:
- Bọn mình lại kia nói chuyện một
chút.
- Tớ xin lỗi, nhưng tớ phải về đi
làm.
- Bỏ việc đi, về đây làm. Bọn mình
có dành hẳn phòng riêng cho Hương ở lại, không phải thuê nhà trọ nữa. Lương
trước mắt không cao, nhưng ổn định.
Lang thang suốt một năm ròng với đủ
thứ công việc, còn gì làm Hương thích hơn hai từ cuối đó: ổn định. Nhiều thứ
trong cuộc sống của cô sẽ được sắp xếp trật tự. Cô luôn thấy an toàn khi có
trật tự. Đó là trước mắt thôi, có cái gì là mãi mãi đâu.
Căn phòng dành cho cô ở sân thượng,
có một giàn lan, nhìn là muốn ở lại rồi. Cô áy náy khi nghĩ đến việc mình chẳng
phụ giúp họ gì trong những ngày chuẩn bị, ăn sẵn thế này, nhận việc, cô phải cố
gắng hết sức.
Ba chủ nhân, sau khi cô quen việc
thì chỉ mỗi ngày ghé qua một lần để xem sổ sách thu chi, việc kinh doanh khoán
trắng cho cô. Họ làm gì bên ngoài, nếu muốn nói thì Hương nghe, còn không thì
cô cũng không hỏi.
Thủy thường nán lại lâu hơn để kể
cho cô nghe đủ thứ chuyện. Những câu chuyện có Tuân làm trung tâm là đủ hiểu
tình cảm Thủy như thế nào. Bộ ba như hình với bóng đó thật phức tạp. Thủy chỉ
nói nửa chừng nhưng Hương hiểu: cái quán sân vườn bề thế này chỉ là một bức
bình phong. Ở cái thành phố bon chen này, họ có thể làm gì? Tự nhiên, cô lại
thấy bất an.
Ngày của cô bắt đầu từ sáng sớm, kéo
dài đến nửa đêm. Hôm nào cũng như hôm nào, cô đều ngủ quên bên chiếc máy vi
tính trong khi tính toán sổ sách và ghi chú công việc cho ngày mới. Trong ba
năm quản lý, cô đã biến cái quán cà phê sân vườn ngoại ô thành một nhà hàng khá
đẹp, tuyển thêm đầu bếp, nhân viên phục vụ, bản thân cô thỉnh thoảng kiêm luôn
chân pha chế cocktail. Sự phát triển đó là nhờ bộ ba chủ nhân luôn ủng hộ những
đề xuất của cô, chấp nhận nhập lãi để cải tạo thành nhà hàng sân vườn. Nhưng họ
bỏ mặc cô xoay xở với công việc như núi. Có lần Hương hỏi Thủy: “Nhà hàng làm
ăn thuận lợi, sao ba người không tập trung về đây, cứ chạy sô suốt, bên ngoài
có việc kiếm nhiều tiền lắm à?”. Thủy nói như đùa: “Vì Hương mới mở cái quán
này, làm cho tốt vào”. Hương mỉm cười, biết có hỏi cũng không có câu trả lời
thật sự, muốn tin thì tin, không muốn tin thì quên đi.
Hương gần như quên thời gian trôi
qua bao lâu. Cô từng rất thích trật tự, nhưng bây giờ, cái trật tự mỗi ngày đó
làm cô mệt mỏi muốn phát điên. Những buổi chiều, khi cố chống chọi cho qua cơn
buồn ngủ bằng những tách cà phê đặc quánh, cô đều trải qua tâm trạng chán nản,
bi quan cùng cực. Qua cơn buồn ngủ thì đâu lại vào đó, sức sống tràn về và cô
lại có thể cười rất tươi.
Một buổi tối, như mọi khi, Hương
đang ngủ gục trên bàn thì nghe tiếng khóc nức nở. Cô mở mắt, quay nhìn. Thư
đang nằm dài trên giường cô, mặt úp xuống gối. Một người khóc ở đây, vậy là bộ
ba có vấn đề. Hương ngửa đầu ra ghế xoay, nhắm mắt một lát cho đỡ nhức trán.
Ôi! Tất cả đều có vấn đề, chỉ đợi thời gian chín mà thôi. Hương thầm thở dài và
chờ Thư thôi khóc.
Hương không ngờ là chuyện lớn hơn cô
tưởng. Gần sáng, cô nhận được tin Thủy đã mất. Thư quáng quàng chồm dậy cùng cô
chạy đi.
Tuân ngồi cạnh xác Thủy, vẻ bơ phờ
như người mất hồn. Thư ngồi xuống bên cạnh rồi gục xuống xác Thủy, khóc òa lên.
Hương ngồi bệt ra đất, dựa lưng vào tường, ngơ ngác không hiểu gì cả.
Tiếng chuông điện thoại reo nhiều
lần nhưng cả hai không buồn bắt máy. Hương mở máy Thủy. Đầu dây bên kia là một
giọng đàn ông lạnh lùng nhắc:
- Ngày mai là hết hạn rồi đó.
Hết hạn gì, Hương chưa kịp hỏi, ông
ta đã tắt máy.
Cái nhà hàng sân vườn phải giao cho
người khác. Hình như họ đã trắng tay sau cái chết của Thủy. Tuân bỏ về quê,
không thấy liên lạc gì nữa. Thư trở về Bắc, thỉnh thoảng có liên lạc với Hương
qua mạng. Hương vẫn không hiểu câu chuyện thật sự là thế nào.
Sự chăm chỉ của Hương cuối cùng đã
có kết quả. Cô giành được một suất học bổng du học. Mấy năm sau, có dịp đi
ngang quê Tuân, Hương tìm đến nhà. Người nhà cho biết Tuân đang khai thác vàng
ở đâu đó. Xem ra, Tuân vẫn không thay đổi.
Thư nghe Hương nói đang trên đường
ra Bắc, liền cho địa chỉ hẹn cô. Thư đến cùng một thằng nhóc vài tuổi rất xinh,
quen mặt vô cùng. Hương hỏi:
- Tuân có biết không?
- Biết. Nhưng may là Tuân không đến
tìm mẹ con mình.
- Sao lại thế?
- Tuân là týp người rất dễ cuốn hút
người khác, như lò lửa, sống cạnh sẽ bị cháy lúc nào không hay. Lúc Thư biết
mình có mang, cũng nhận ra mình không phù hợp với lối sống phập phồng lo âu thế
nữa. Cho đến bây giờ, Thư cũng không biết Thủy chết vì biết mình có con với
Tuân hay chết vì vỡ nợ. Bọn mình làm bao nhiêu cũng không đủ cho Tuân. Tuân vốn
máu mê bài bạc và cá độ. Thế đấy! Bây giờ vẫn phải trốn nợ. Có dạo bọn đòi nợ
còn ra tận đây kiếm Tuân.
- Thư dạo này thế nào?
- Công việc công chức, cũng đủ sống.
May là thằng bé rất khỏe mạnh và rất ngoan, ông bà ngoại yêu lắm. Nghĩ về những
ngày xưa là mình lại thấy sợ.
Cách Thư nói như là Thư đã già lắm.
Hương mỉm cười nhớ lần đầu tiên gặp Thư, cũng vẻ duyên dáng, dịu dàng không
khác mấy bây giờ. Ừ, có lẽ bây giờ ra vẻ một bà mẹ yêu con, không có thứ lửa
cuồng nhiệt cháy trong mắt như hồi đó. Chỉ khác thế thôi.
- Mãi nói chuyện mình, quên hỏi
Hương. Bạn về nước luôn hay sẽ đi nữa?
- Đi đi, về về.
Thư nhìn Hương một chút rồi quay đầu
nhìn ra hàng cây ngoài đường khẽ nói:
- Thủy ở trên trời thấy Hương được
như vậy sẽ rất vui. Thủy nói luôn yêu mến Hương vì Hương rất ngoan, rất thương
mẹ, lại chăm chỉ, có thể tin cậy được. Một ngày nào đó sẽ tiến xa.
- Thế ư!
Hương lại thấy nghẹn ngào trong lòng
khi nhớ câu Thủy trả lời lúc cô hỏi vì sao mở cái quán cà phê sân vườn ấy mà
không tập trung phát triển nó, và dáng
Thủy nằm trên giường, khuôn mặt trúng độc thâm đen, sưng phù, dù cô cố xóa,
nhưng vẫn quay lại với những hình ảnh lúc nào cũng sống động, mới toanh. Bây
giờ, cô hiểu mình không cần phải cố xóa nữa. Những gì nên nhớ, cô sẽ nhớ. Những
gì nên quên, cô sẽ quên. Ít nhất, cô sẽ giữ mình như trong mắt bạn, một người
có thể tin cậy được. Đơn giản thế thôi.
******
Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2009
CÁI CHẾT CỦA BÀ QUÉT CHỢ
Bà quét chợ khoảng 40 tuổi, cô độc,
khoèo một chân. Người thân của bà là con heo nái vừa đẻ một đàn mười heo con và
một bầy gà nòi, phần lớn là con trống rất đẹp mã.
Trưa mỗi ngày, lúc chợ quê tan, bà quét
chợ với cây chổi cán dài tự chế bằng tàu cau hoặc cành cây, sau khi gom rác, bà
lựa ve chai, rau củ dạt, rồi kéo rác đổ xuống cầu tàu. Xong việc, bà đẩy một xe
rác về đổ trên đất vườn.
Bà sống trong căn nhà lá, nằm ngay
lối vào một miếng đất khá rộng, cây trái xanh tốt, bốn mùa đều có trái chín, trơ
trọi cạnh bờ sông.
Hàng tháng, người thu hoa chi sẽ đưa
bà một khoản lương.
Trưa nay, chợ đã tan, không thấy bà
quét chợ đi cà nhắc với cây chổi cán dài. Ruồi nhặng bay u u khắp nơi. Chỗ bán
cá cạnh cầu tàu là gớm nhất. Mùi cá ươn theo gió đi vào mọi ngóc ngách phố chợ.
Những nhà ở xa cầu tàu đến nói những nhà cạnh chỗ bán cá:
- Hôm nay, bà quét chợ trốn việc.
Mấy người ở cạnh cái mỏ thúi mà vẫn chịu được sao?
Ý là sao mấy người không xách nước
sông lên dội chợ cá đi. Những căn nhà im lìm như những người bên trong. Đâu
phải việc của họ, đó là việc của bà quét chợ.
Càng về chiều, nắng nóng làm cho mùi
cá chết càng bốc lên kinh khủng. Mây đen kéo tới mù mịt. Gió từ sông cái thổi
giật những mái tôn rầm rập. Mưa to đến tối.
Người thu hoa chi vừa ăn cơm chiều
xong, đang ngồi xỉa răng. Khi xế, ông đã định vào xem bà quét chợ có bệnh tật
gì không. Bà ấy tuy trông gầy ốm, nhưng chẳng bỏ việc bao giờ. Ông nhìn ra con
đường trước nhà, thấy sình lầy nhầy nhụa, mưa vẫn còn nặng hạt, ngại ngần nghĩ:
- Có lẽ mai bà ấy sẽ có mặt.
Ông bật tivi, leo lên võng nằm đong
đưa.
Hôm sau, cảnh hôm qua lại tái diễn.
Chợ cá lại bốc mùi. Chợ rau càng bẩn hơn vì ngập ngụa sình lầy và rác quện vào
nhau. Người đi chợ tha sình từ mọi ngã đường vào. Các nhà ở phố chợ giận nhau
vì ai nói kệ ai, không nhà nào ra giải quyết cái chợ cá.
Cái chợ tàn như bãi rác lộ thiên.
Sống cạnh bãi rác như thế, tâm trạng mọi người trở nên bức bối. Dân chợ trách
móc: Bà quét chợ thật tệ, tiền thì biết lấy, chẳng nói tiếng nào đã đình công, phải
cho bà ấy biết thế nào là trách nhiệm, nghĩa vụ mới được. Mọi người dễ dãi nên
bà ta lờn mặt.
Một đoàn gần chục người mặt mũi quạu
đeo, dẫn đầu là ông thu hoa chi đến nhà bà quét chợ. Từ đàng xa, nhìn thấy khu
đất xanh um cây trái, họ bảo nhau:
- Chúng ta đâu có xử tệ với bả. Làng
cho mấy đời nhà quét chợ miếng đất đó, bây giờ tiền không. Coi bầy heo đủng
đỉnh ăn rau trong vườn kìa, bầy gà đá đó nữa, cả một gia tài, vậy mà không biết
ơn chúng ta.
Ông thu hoa chi nhăn mặt:
- Mấy bà đừng có thêm mắm dặm muối. Năm
xưa, miếng đất bãi bồi bỏ hoang này chẳng ai thèm. Cỏ, lác, ô rô gai góc mọc
lút đầu người. Nghe nói ông cố, ông sơ nhà bả mua bằng công quét chợ mấy năm.
Bao nhiêu đời nhà người ta kéo rác về đắp bồi mới được như giờ.
Đứng trước cửa gọi mãi không nghe bà
quét chợ lên tiếng, ông thu hoa chi nhấc cái cửa để qua một bên, bước vào
trong, miệng lầm bầm:
- Thời buổi này mà cửa nẻo gì, có
cũng như không.
Ông bỗng ngừng bặt vì cảnh tượng
trước mắt. Ở chái bếp thấp lè tè, cao vừa khỏi đầu người, bà quét chợ đã chết trong
tư thế quỳ gối, đầu gục xuống ngực, cái lưỡi thè dài đã chuyển màu đen, sợi
thòng lọng lủng lẳng xệ xuống tận bụng.
Mọi người xúm lại lao xao nói, hòa
với tiếng gà, heo kêu xung quanh, tạo thành một bản hòa âm kỳ lạ bên cạnh cái
chết cũng rất lạ của bà quét chợ. Treo cổ thì phải chết treo, đằng này bà lại
chết quỳ với cái thòng lọng không thít vào đâu.
Công an đến ghi chép, nhưng không
hỏi được gì nhiều vì quanh đó không có nhà cửa. Bà quét chợ không giàu có,
không xinh đẹp, không người thân… tóm lại là không có động cơ. Căn nhà nhỏ của
bà hoàn toàn ngăn nắp, sạch sẽ. Ngoài vườn, cây lá vẫn rất xanh. Thế giới vẫn
thanh bình với những làn mây trôi êm đềm giữa một trời quang, sau ngày mưa xối
xả đến cạn kiệt mây đen như hôm qua. Và, những cánh bướm sặc sỡ, những chú ong
bầu bay ù ù vẫn nhởn nhơ hút mật trong làn gió nhẹ. Một cuộc đời cô độc, đến
rồi đi, vô thường thế thôi.
Bỗng nhiên tổ tông mấy đời nhà bà
quét chợ bị người ta lôi ra, để cuối cùng kết luận: Nhà đó có huông ma thòng
lọng. Đời nào cũng có ít nhất là một người thắt cổ chết treo. Mọi người sợ dính
huông thắt cổ, chẳng ai dám động đến cái xác. Một ông sư được mời đến để cắt
thòng lọng. Chẳng biết thực hư thế nào, người ta đồn rằng khi cắt sợi dây, bên
trong đen sì máu bầm?!
Đám tang của bà do xã đứng ra lo
liệu. Đó là một cái đám tang rất lớn với hàng chục con heo sữa quay và một con
heo nái hơn một tạ thịt hơi. Bầy gà nòi của bà, người ta tranh nhau mua. Cuối
cùng xảy ra một chuyện chưa từng có, ủy ban xã cử người tổ chức đấu giá bầy gà
để lấy tiền chôn cất chủ.
Thật kinh ngạc, bầy gà nòi bán hơn
ba mươi triệu đồng. Con gà to nhất đàn, có cái cựa dài nhọn hoắt, lúc nào cũng
hung hăng đi kiếm chuyện với những con gà khác, đã được trả tới bảy triệu đồng.
Nhiều tiền quá, xã quyết định mua cái hòm cẩm lai duy nhất của trại hòm. Nghe
nói cái hòm ấy nhiều năm không bán được vì giá quá cao. Ông chủ trại hòm còn
than thở:
- Vừa bán, vừa cho chứ mắc mỏ gì!
Cẩm lai bây giờ làm gì còn để mang đi đóng hòm. Đóng nội thất cao cấp còn không
có mà đóng. Chẳng qua gỗ đóng hòm rồi, đâu thể tháo ra. Bán rồi, tiếc muốn
chết.
Con trai ông chủ trại hòm hỏi:
- Cha tiếc vậy sao còn cho không
dịch vụ kèm? Những cái đó mình phải tốn tiền mà?
- Nghĩa tử là nghĩa tận. Vài bộ đồ
liệm, mấy thằng khiêng đòn, chủ tế… công nhà cả, tính toán làm chi với người
chết.
Mấy hôm sau, bà quét chợ được yên
nghỉ ở đất thánh (nơi chôn cất những người nghèo, vô gia cư,
xác vô thừa nhận - NV).
Miếng đất của bà trở thành tài sản
công. Xã muốn bán để sung công quỹ, nhưng chẳng ai muốn mua. Khu đất không
người chăm sóc, gặp mùa mưa, đủ loại cây từ đất rác mục ấy chen nhau mọc lên,
xanh như chưa bao giờ cây cỏ được xanh như thế.
Thời gian qua đi, mọi chuyện sẽ vào
quên lãng nếu như mấy con gà nòi không sinh quái bệnh. Gà đá mà không chịu đá.
Những người chủ gà không hiểu vì sao khi thả trong vườn, những con gà nòi rất
hung hăng, đá bất kể gà trống, gà mái, gà con cho đến dở sống, dở chết mới
thôi. Khi những con gà tan tác, nằm khốn khổ la liệt trên đất thì con gà nòi vỗ
cái cánh chẳng có mấy lông và ngửa cái cổ đỏ trụi lủi, gân guốc như đô vật, hả
hê gáy rất to. Còn khi ôm vào xới gà, chúng cứ đứng sững ra đó, mặc cho kẻ địch
tha hồ đá mổ. Chủ gà đành phải chịu thua để ôm gà về.
Tưởng chỉ một con như vậy, hỏi ra
mới biết những ai mua gà của bà quét chợ đều gặp tình trạng đó cả. Những kẻ
chơi gà đá độ không đủ tiền để đấu giá những con gà của bà quét chợ thì cười:
- Thèm gà người ta cho lắm, bây giờ
mua được hóa ra gà không biết đá.
Người ta bắt đầu rỉ tai nhau những
câu chuyện về kẻ đã giết bà quét chợ. Có lẽ không chỉ một người mà là nhóm
người. Các mẩu chuyện truyền khẩu đó, tuy không chỉ đích danh, nhưng nói đến
những con gà, khác nào chỉ đích danh còn gì. Một người nói, hai người nói… càng
nhiều người nói, câu chuyện càng hoàn chỉnh như đang thật sự thấy những kẻ giết
người chỉ vì một bầy gà đá quá chiến mà chủ của chúng thà để già chết đem chôn,
không bao giờ bán. Rồi câu chuyện được kết luận như sau: Có rất nhiều dấu vết ở
hiện trường, có thể chỉ ra thủ phạm, nhưng công an của ta không có máy móc và
kỹ thuật giỏi như nước ngoài, bởi vậy mà bà quét chợ chết oan. Hồn ma của bà ám
mấy con gà. Nghe thật buồn cười. Câu chuyện đang là rất lý trí, rất hiện thực,
bỗng dưng cái kết lại ngoặt mấy trăm độ về số âm. Những chủ gà mới khổ, đi đâu
cũng bị dòm ngó, lườm nguýt.
Lúc ấy, ông nội bé Tú - một người
trong xã đã mua miếng đất của bà quét chợ. Những người được thuê dọn quang khu
đất kể, họ chưa bao giờ thấy nhiều ổ rắn đủ loại như ở đó, tha hồ mà bắt, không
hiểu là “ma cũ hay ma mới”. Nếu là “ma cũ”, sao heo, gà có thể sống hòa bình
như thế năm này sang năm khác? “Ma mới” thì từ đâu mà đến, kéo theo bầy đàn
thấy ớn. Mà rắn đem lên Sài Gòn, càng độc, càng bán được tiền.
Nói đến tiền, bỗng dưng người ta
tổng kết rằng bà quét chợ rất giàu. Thì đó, bà vừa chết đi, của nổi đã thấy
khối tiền, biết đâu bà cắc củm để dành, của chìm chắc cũng không ít. Vậy tiền, bà
giấu đâu? Không ít người bỏ công lục soát, đào xới ở đó, không nghe ai khoe
mình kiếm được xu nào, nhưng nhờ thế mà đỡ cực cho những người dọn quang khu
đất.
Một chủ tàu ở Phú Quốc ghé chợ kiếm
ông thu hoa chi hỏi thăm nhà của bà quét chợ. Ông thu hoa chi hỏi:
- Bà quét chợ cũ hay mới?
- Bà quét chợ đi cà nhắc.
- Bà ấy chết rồi. Ông kiếm có chuyện
gì?
- Bà ấy tặng tôi cặp gà nòi. Tôi hứa
tháng này ngang qua sẽ tặng bà ấy một con chó Phú Quốc. Mộ bà ấy ở đâu? Tôi đến
thắp nhang.
Ông thu hoa chi ngẫm nghĩ: Sợi thòng
lọng đó, chắc là để chuẩn bị buộc con chó. Rồi chuyện gì xảy ra và vì sao bà
lại chết trong tư thế kỳ cục thế, nghĩ không ra.
Không ai nhớ bà quét chợ từng sống
ra sao. Nhưng bà chết thế nào thì có khi người ta biết còn nhiều hơn cả chuyện
thực sự đã xảy ra.
Ông nội bé Tú đã dỡ nhà bà
quét chợ, xây một cái miếu nhỏ ở góc trái mảnh đất, trên cửa miếu sơn một hàng
chữ: Miếu bà quét chợ. Thì ra, không ai biết bà quét chợ tên gì!
Ngày ngày, ông cử người nhang khói,
cúng cơm cho bà theo tập tục. Người trong làng đi ngang qua
cái miếu nhỏ, ai cũng tiện tay thắp một cây nhang. Là hương khói, mọi thứ chỉ
là hương khói thôi, nhưng mỗi khi thắp một cây nhang, người ta lại nhìn cái tên
miếu. Ít nhất, đó cũng là điều có thể nhớ về một con người đã từng sống trên
mảnh đất này.
******
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)