Bà quét chợ khoảng 40 tuổi, cô độc,
khoèo một chân. Người thân của bà là con heo nái vừa đẻ một đàn mười heo con và
một bầy gà nòi, phần lớn là con trống rất đẹp mã.
Trưa mỗi ngày, lúc chợ quê tan, bà quét
chợ với cây chổi cán dài tự chế bằng tàu cau hoặc cành cây, sau khi gom rác, bà
lựa ve chai, rau củ dạt, rồi kéo rác đổ xuống cầu tàu. Xong việc, bà đẩy một xe
rác về đổ trên đất vườn.
Bà sống trong căn nhà lá, nằm ngay
lối vào một miếng đất khá rộng, cây trái xanh tốt, bốn mùa đều có trái chín, trơ
trọi cạnh bờ sông.
Hàng tháng, người thu hoa chi sẽ đưa
bà một khoản lương.
Trưa nay, chợ đã tan, không thấy bà
quét chợ đi cà nhắc với cây chổi cán dài. Ruồi nhặng bay u u khắp nơi. Chỗ bán
cá cạnh cầu tàu là gớm nhất. Mùi cá ươn theo gió đi vào mọi ngóc ngách phố chợ.
Những nhà ở xa cầu tàu đến nói những nhà cạnh chỗ bán cá:
- Hôm nay, bà quét chợ trốn việc.
Mấy người ở cạnh cái mỏ thúi mà vẫn chịu được sao?
Ý là sao mấy người không xách nước
sông lên dội chợ cá đi. Những căn nhà im lìm như những người bên trong. Đâu
phải việc của họ, đó là việc của bà quét chợ.
Càng về chiều, nắng nóng làm cho mùi
cá chết càng bốc lên kinh khủng. Mây đen kéo tới mù mịt. Gió từ sông cái thổi
giật những mái tôn rầm rập. Mưa to đến tối.
Người thu hoa chi vừa ăn cơm chiều
xong, đang ngồi xỉa răng. Khi xế, ông đã định vào xem bà quét chợ có bệnh tật
gì không. Bà ấy tuy trông gầy ốm, nhưng chẳng bỏ việc bao giờ. Ông nhìn ra con
đường trước nhà, thấy sình lầy nhầy nhụa, mưa vẫn còn nặng hạt, ngại ngần nghĩ:
- Có lẽ mai bà ấy sẽ có mặt.
Ông bật tivi, leo lên võng nằm đong
đưa.
Hôm sau, cảnh hôm qua lại tái diễn.
Chợ cá lại bốc mùi. Chợ rau càng bẩn hơn vì ngập ngụa sình lầy và rác quện vào
nhau. Người đi chợ tha sình từ mọi ngã đường vào. Các nhà ở phố chợ giận nhau
vì ai nói kệ ai, không nhà nào ra giải quyết cái chợ cá.
Cái chợ tàn như bãi rác lộ thiên.
Sống cạnh bãi rác như thế, tâm trạng mọi người trở nên bức bối. Dân chợ trách
móc: Bà quét chợ thật tệ, tiền thì biết lấy, chẳng nói tiếng nào đã đình công, phải
cho bà ấy biết thế nào là trách nhiệm, nghĩa vụ mới được. Mọi người dễ dãi nên
bà ta lờn mặt.
Một đoàn gần chục người mặt mũi quạu
đeo, dẫn đầu là ông thu hoa chi đến nhà bà quét chợ. Từ đàng xa, nhìn thấy khu
đất xanh um cây trái, họ bảo nhau:
- Chúng ta đâu có xử tệ với bả. Làng
cho mấy đời nhà quét chợ miếng đất đó, bây giờ tiền không. Coi bầy heo đủng
đỉnh ăn rau trong vườn kìa, bầy gà đá đó nữa, cả một gia tài, vậy mà không biết
ơn chúng ta.
Ông thu hoa chi nhăn mặt:
- Mấy bà đừng có thêm mắm dặm muối. Năm
xưa, miếng đất bãi bồi bỏ hoang này chẳng ai thèm. Cỏ, lác, ô rô gai góc mọc
lút đầu người. Nghe nói ông cố, ông sơ nhà bả mua bằng công quét chợ mấy năm.
Bao nhiêu đời nhà người ta kéo rác về đắp bồi mới được như giờ.
Đứng trước cửa gọi mãi không nghe bà
quét chợ lên tiếng, ông thu hoa chi nhấc cái cửa để qua một bên, bước vào
trong, miệng lầm bầm:
- Thời buổi này mà cửa nẻo gì, có
cũng như không.
Ông bỗng ngừng bặt vì cảnh tượng
trước mắt. Ở chái bếp thấp lè tè, cao vừa khỏi đầu người, bà quét chợ đã chết trong
tư thế quỳ gối, đầu gục xuống ngực, cái lưỡi thè dài đã chuyển màu đen, sợi
thòng lọng lủng lẳng xệ xuống tận bụng.
Mọi người xúm lại lao xao nói, hòa
với tiếng gà, heo kêu xung quanh, tạo thành một bản hòa âm kỳ lạ bên cạnh cái
chết cũng rất lạ của bà quét chợ. Treo cổ thì phải chết treo, đằng này bà lại
chết quỳ với cái thòng lọng không thít vào đâu.
Công an đến ghi chép, nhưng không
hỏi được gì nhiều vì quanh đó không có nhà cửa. Bà quét chợ không giàu có,
không xinh đẹp, không người thân… tóm lại là không có động cơ. Căn nhà nhỏ của
bà hoàn toàn ngăn nắp, sạch sẽ. Ngoài vườn, cây lá vẫn rất xanh. Thế giới vẫn
thanh bình với những làn mây trôi êm đềm giữa một trời quang, sau ngày mưa xối
xả đến cạn kiệt mây đen như hôm qua. Và, những cánh bướm sặc sỡ, những chú ong
bầu bay ù ù vẫn nhởn nhơ hút mật trong làn gió nhẹ. Một cuộc đời cô độc, đến
rồi đi, vô thường thế thôi.
Bỗng nhiên tổ tông mấy đời nhà bà
quét chợ bị người ta lôi ra, để cuối cùng kết luận: Nhà đó có huông ma thòng
lọng. Đời nào cũng có ít nhất là một người thắt cổ chết treo. Mọi người sợ dính
huông thắt cổ, chẳng ai dám động đến cái xác. Một ông sư được mời đến để cắt
thòng lọng. Chẳng biết thực hư thế nào, người ta đồn rằng khi cắt sợi dây, bên
trong đen sì máu bầm?!
Đám tang của bà do xã đứng ra lo
liệu. Đó là một cái đám tang rất lớn với hàng chục con heo sữa quay và một con
heo nái hơn một tạ thịt hơi. Bầy gà nòi của bà, người ta tranh nhau mua. Cuối
cùng xảy ra một chuyện chưa từng có, ủy ban xã cử người tổ chức đấu giá bầy gà
để lấy tiền chôn cất chủ.
Thật kinh ngạc, bầy gà nòi bán hơn
ba mươi triệu đồng. Con gà to nhất đàn, có cái cựa dài nhọn hoắt, lúc nào cũng
hung hăng đi kiếm chuyện với những con gà khác, đã được trả tới bảy triệu đồng.
Nhiều tiền quá, xã quyết định mua cái hòm cẩm lai duy nhất của trại hòm. Nghe
nói cái hòm ấy nhiều năm không bán được vì giá quá cao. Ông chủ trại hòm còn
than thở:
- Vừa bán, vừa cho chứ mắc mỏ gì!
Cẩm lai bây giờ làm gì còn để mang đi đóng hòm. Đóng nội thất cao cấp còn không
có mà đóng. Chẳng qua gỗ đóng hòm rồi, đâu thể tháo ra. Bán rồi, tiếc muốn
chết.
Con trai ông chủ trại hòm hỏi:
- Cha tiếc vậy sao còn cho không
dịch vụ kèm? Những cái đó mình phải tốn tiền mà?
- Nghĩa tử là nghĩa tận. Vài bộ đồ
liệm, mấy thằng khiêng đòn, chủ tế… công nhà cả, tính toán làm chi với người
chết.
Mấy hôm sau, bà quét chợ được yên
nghỉ ở đất thánh (nơi chôn cất những người nghèo, vô gia cư,
xác vô thừa nhận - NV).
Miếng đất của bà trở thành tài sản
công. Xã muốn bán để sung công quỹ, nhưng chẳng ai muốn mua. Khu đất không
người chăm sóc, gặp mùa mưa, đủ loại cây từ đất rác mục ấy chen nhau mọc lên,
xanh như chưa bao giờ cây cỏ được xanh như thế.
Thời gian qua đi, mọi chuyện sẽ vào
quên lãng nếu như mấy con gà nòi không sinh quái bệnh. Gà đá mà không chịu đá.
Những người chủ gà không hiểu vì sao khi thả trong vườn, những con gà nòi rất
hung hăng, đá bất kể gà trống, gà mái, gà con cho đến dở sống, dở chết mới
thôi. Khi những con gà tan tác, nằm khốn khổ la liệt trên đất thì con gà nòi vỗ
cái cánh chẳng có mấy lông và ngửa cái cổ đỏ trụi lủi, gân guốc như đô vật, hả
hê gáy rất to. Còn khi ôm vào xới gà, chúng cứ đứng sững ra đó, mặc cho kẻ địch
tha hồ đá mổ. Chủ gà đành phải chịu thua để ôm gà về.
Tưởng chỉ một con như vậy, hỏi ra
mới biết những ai mua gà của bà quét chợ đều gặp tình trạng đó cả. Những kẻ
chơi gà đá độ không đủ tiền để đấu giá những con gà của bà quét chợ thì cười:
- Thèm gà người ta cho lắm, bây giờ
mua được hóa ra gà không biết đá.
Người ta bắt đầu rỉ tai nhau những
câu chuyện về kẻ đã giết bà quét chợ. Có lẽ không chỉ một người mà là nhóm
người. Các mẩu chuyện truyền khẩu đó, tuy không chỉ đích danh, nhưng nói đến
những con gà, khác nào chỉ đích danh còn gì. Một người nói, hai người nói… càng
nhiều người nói, câu chuyện càng hoàn chỉnh như đang thật sự thấy những kẻ giết
người chỉ vì một bầy gà đá quá chiến mà chủ của chúng thà để già chết đem chôn,
không bao giờ bán. Rồi câu chuyện được kết luận như sau: Có rất nhiều dấu vết ở
hiện trường, có thể chỉ ra thủ phạm, nhưng công an của ta không có máy móc và
kỹ thuật giỏi như nước ngoài, bởi vậy mà bà quét chợ chết oan. Hồn ma của bà ám
mấy con gà. Nghe thật buồn cười. Câu chuyện đang là rất lý trí, rất hiện thực,
bỗng dưng cái kết lại ngoặt mấy trăm độ về số âm. Những chủ gà mới khổ, đi đâu
cũng bị dòm ngó, lườm nguýt.
Lúc ấy, ông nội bé Tú - một người
trong xã đã mua miếng đất của bà quét chợ. Những người được thuê dọn quang khu
đất kể, họ chưa bao giờ thấy nhiều ổ rắn đủ loại như ở đó, tha hồ mà bắt, không
hiểu là “ma cũ hay ma mới”. Nếu là “ma cũ”, sao heo, gà có thể sống hòa bình
như thế năm này sang năm khác? “Ma mới” thì từ đâu mà đến, kéo theo bầy đàn
thấy ớn. Mà rắn đem lên Sài Gòn, càng độc, càng bán được tiền.
Nói đến tiền, bỗng dưng người ta
tổng kết rằng bà quét chợ rất giàu. Thì đó, bà vừa chết đi, của nổi đã thấy
khối tiền, biết đâu bà cắc củm để dành, của chìm chắc cũng không ít. Vậy tiền, bà
giấu đâu? Không ít người bỏ công lục soát, đào xới ở đó, không nghe ai khoe
mình kiếm được xu nào, nhưng nhờ thế mà đỡ cực cho những người dọn quang khu
đất.
Một chủ tàu ở Phú Quốc ghé chợ kiếm
ông thu hoa chi hỏi thăm nhà của bà quét chợ. Ông thu hoa chi hỏi:
- Bà quét chợ cũ hay mới?
- Bà quét chợ đi cà nhắc.
- Bà ấy chết rồi. Ông kiếm có chuyện
gì?
- Bà ấy tặng tôi cặp gà nòi. Tôi hứa
tháng này ngang qua sẽ tặng bà ấy một con chó Phú Quốc. Mộ bà ấy ở đâu? Tôi đến
thắp nhang.
Ông thu hoa chi ngẫm nghĩ: Sợi thòng
lọng đó, chắc là để chuẩn bị buộc con chó. Rồi chuyện gì xảy ra và vì sao bà
lại chết trong tư thế kỳ cục thế, nghĩ không ra.
Không ai nhớ bà quét chợ từng sống
ra sao. Nhưng bà chết thế nào thì có khi người ta biết còn nhiều hơn cả chuyện
thực sự đã xảy ra.
Ông nội bé Tú đã dỡ nhà bà
quét chợ, xây một cái miếu nhỏ ở góc trái mảnh đất, trên cửa miếu sơn một hàng
chữ: Miếu bà quét chợ. Thì ra, không ai biết bà quét chợ tên gì!
Ngày ngày, ông cử người nhang khói,
cúng cơm cho bà theo tập tục. Người trong làng đi ngang qua
cái miếu nhỏ, ai cũng tiện tay thắp một cây nhang. Là hương khói, mọi thứ chỉ
là hương khói thôi, nhưng mỗi khi thắp một cây nhang, người ta lại nhìn cái tên
miếu. Ít nhất, đó cũng là điều có thể nhớ về một con người đã từng sống trên
mảnh đất này.
******
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét